Người nghệ nhân tài ba và những tác phẩm điêu khắc để đời
Bằng Giang
08:46 24/12/2009
HNP - Có một quê nghèo, nhưng lại sản sinh ra nhiều nhân tài. Đó là làng Triều Đông, xã Tân Minh (Thường Tín), quê hương của ba vị tiến sỹ: Đào Duy Hổ, Lý Tử Tấn và Bùi Thức; quê của Phó bảng Bùi Quế, của nhà Nho học, nhà cách mạng Bùi Kỷ... Vào nửa đầu thế kỷ 20, có thêm một nghệ nhân dân gian nổi tiếng - nhà điêu khắc gốm tài hoa. Ông là Đào Văn Can (1894 - 1976), người đã để lại hàng ngàn tác phẩm điêu khắc giá trị. Ông là người dựng chùa Triều Đông, người tạc các tượng thờ ở nhà thờ La Phù, người đúc tượng đồng Pháp Vũ ở chùa Đậu và vô số tác phẩm điêu khắc đã, đang và mãi mãi hiện hữu ở làng quê.
Bà Đào Thị Ban, con gái duy nhất của nghệ nhân Đào Văn Can đã hơn sáu mươi tuổi, kể lại: Ngôi nhà mà bà đang ở giữa thôn Triều Đông là do ông Can xây nên và bây giờ cũng chính là nhà thờ ông. Trong căn nhà đơn sơ, giản dị đó, chỉ có những tấm ảnh chụp tác phẩm của ông và những quyển sách nghiên cứu về ông được đặt trong tủ kính cẩn thận và trang trọng. Theo mô tả của bà Ban, thì nghệ nhân Đào Văn Can người nhỏ bé, khuôn mặt xương xương, hay kể chuyện và suốt ngày mê mẩn với những bức tượng. Một chiếc xe đạp cà tàng, không chắn bùn, chắn xích và một dụng cụ làm việc duy nhất là chiếc bay trúc hình cá trắm, đầu cong, đầu nhọn, đã theo ông đi khắp nơi. Thời trước bố mẹ của ông Can nghèo lắm, đã kéo nhau sang Bát Tràng để làm thuê. Lúc ông Can mới lên tám, được bố mẹ cho theo học thầy đồ Nho ở làng Bát Tràng với ao ước, mong cho con có chữ nghĩa để đỡ khổ. Ngoài những buổi học, ông Can quấn quít với các nghệ nhân gốm của xưởng thợ lò nung Bát Tràng và chơi ở đình chùa. Những pho tượng ở chùa và những mái đình cong cong mềm mại đã nhen nhóm trong lòng ông niềm say mê ngưỡng vọng nghệ thuật nặn tượng. Chính điều đó đã khiến đứa trẻ lên mười cầm than và gạch non vẽ lên mặt đất những con giống ngộ nghĩnh. Và rồi, ở lò nung Bát Tràng, những sản phẩm nghệ thuật đầu tiên mang đậm dấu ấn của tuổi thơ đã dự báo một tài năng của ngành Gốm Việt Nam đã ra đời, đó là những cái tu huýt thổi kêu toe toe... Mười ba tuổi, Đào Văn Can đã trở thành người thợ vẽ. Làm thuê cho chủ lò ở Bát Tràng được hai năm, năm 1909, ông theo một người từng làm ở Trường Bách Nghệ (Hà Nội) làm sản phẩm mỹ nghệ cao cấp hơn. Tại đây, ông chuyển từ vẽ sang đắp nổi các hình rồng, voi, hươu, hổ, tứ quý... Mười năm ở lò gốm Bát Tràng đã cho ông vốn kiến thức phong phú về ngành Gốm, về lò nung, với nét vẽ phóng bút, hình đắp tỉ mỉ, công phu. Từ năm 1917 - 1934, ông làm việc lại Công ty Gốm Thanh Trì. Công việc của ông là sáng tác mẫu, tạc tượng, tạo dáng, trang trí họa tiết cho mặt hàng gốm. Cũng trong thời gian này, nghệ nhân Đào Văn Can thi công chùa Hưng Ký (Hà Nội), tạc hàng ngàn bức tượng; sau đó mở lò gốm riêng ở làng Quỳnh Lôi (Hà Nội). Từ năm 1940 - 1945, nghệ nhân trở lại với chất liệu gốm nung mà tiêu biểu là sáng tác một loạt tượng thánh đặt tại nhà thờ thôn La Phù (xã Tân Minh) và ông cũng chính là người dựng chùa Triều Đông, đắp hàng ngàn pho tượng trong chùa. Đánh giá về ông, giới nghiên cứu gốm Việt Nam đã khẳng định: ông là ười đầu tiên trong lịch sử nghề gốm Việt Nam làm tượng lớn thành công bằng phương pháp cắt khoanh, khoét rỗng nung và gắn lại tượng. Ông cũng là người đầu tiên sử dụng kỹ thuật in hoa văn hàng loạt bằng bản in đồng tiền gốm Thanh Trì Hà Nội). Khi bắt gặp loại gốm này, họ thường gọi là “gốm ông Can". Không những thế, ông còn làm đồ mỹ nghệ men lam Bát Tràng, làm tượng nhỏ bằng đất nung, hoặc men lam, hoặc phú hoàn kim với kỹ thuật điêu luyện, tinh xảo. Điều đặc biệt ở nghệ nhân Đào Văn Can là dù sáng tác tác phẩm to hay nhỏ, cũng chỉ sử dụng duy nhất một dụng cụ: Chiếc bay trúc. Vậy mà các nhân vật trong tác phẩm từ cụ già đến em bé, từ tượng Thánh đến tượng Phật... đều sống động và tinh tế. Chỉ bằng trí nhớ, óc tưởng tượng thể hiện qua đôi tay tài hoa, chứ không bao giờ sáng tác theo mẫu. Cách mạng Tháng Tám thành công. Ông đem tài và sức phục vụ cho công tác văn hóa thông tin ở Ứng Hòa, Thường Tín đồng thời ngày càng sáng tác thành công nhiều tác phẩm nghệ thuật điêu khắc phục vụ cách mạng: Năm 1952, đúc tượng đồng Pháp Vu và tạc tượng sư cụ chùa Thịnh Liệt đặt ở chùa Đậu, xã Nguyễn Trãi (Thường Tín). Đây là hai tác phẩm được giới nghiên cứu đánh giá cao. Năm 1956, ông sáng tác tượng Kim Đồng, trưng bày tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam và tượng “Anh em xem sách", trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật Bu-ca-ra (Rumani). Đây là tác phẩm đoạt giải nhì triển lãm mỹ thuật 1956. Năm 1960, sáng tác tượng "ăn quả nhớ người trồng cây" đạt giải nhì triển lãm Mỹ thuật Việt Nam. Ông là nhà điêu khắc đã để lại cho đời một khối lượng tác phẩm khá đồ sộ. Ông là nghệ nhân dân gian đầu tiên được kết nạp vào Hội của các nghệ sĩ tạo hình, được Hội Mỹ thuật Việt Nam truy tặng Huy chương Vì sự nghiệp mỹ thuật Việt Nam; Huy chương Vì sự nghiệp văn nghệ dân gian Việt Nam: được Bộ VH - TT tặng Bằng “Nghệ nhân bàn tay vàng".. Bây giờ, đến làng Triều Đông, đứng ở sân chùa Triều Đông, ngước nhìn tấm phù điêu bằng đất nung "Thị Kính bị chồng và mẹ chồng vu oan” (tạc năm 1941) và đến chùa Đậu ngắm bức tượng đồng bà Pháp Vũ uy nghi, vẫn thấy sự chắt lọc tinh tế cả về đề tài lẫn chất liệu mộc mạc mà người nghệ nhân tài ba làng Triều Đông đã để lại cho đời. Đó là những tác phẩm sống mãi với thời gian...
|