Tiếng gọi biên cương và khúc tráng ca máu lửa
Ông Nguyễn Đình Đạt, sinh năm 1958, tại xã Kim An, huyện Thanh Oai, Hà Nội là một người nông dân thuần hậu, chân đất, lớn lên trong những năm tháng đất nước rực lửa tái thiết sau chiến thắng 30/4 lịch sử. Năm 18 tuổi, khi tiếng súng Pol Pot rền rĩ bên kia biên giới, ông không chần chừ mà theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc lên đường nhập ngũ, mang theo lời thề "sống chết cho đất mẹ" như bao chàng trai thời ấy.
Ông được biên chế vào lực lượng Công an nhân dân vũ trang, đưa lên Trường Sĩ quan Biên phòng Sơn Tây huấn luyện. Nhưng chưa đầy nửa năm, tiếng gọi khẩn cấp từ phương Nam vang lên: Biên giới Tây Nam rực lửa, giặc Pol Pot điên cuồng tấn công, thảm sát dân thường, gieo rắc tang thương khắp An Giang, Kiên Giang, Tây Ninh. Ông Đạt, cùng hàng trăm đồng đội trẻ tuổi như ông Tăng Văn Thanh vội lên tàu hỏa ngày đêm tiến vào miền Nam, mang theo trái tim nóng rực lý tưởng bảo vệ từng tấc đất, từng mái nhà biên cương.
Ông Đạt bị giặc bắn 4 phát đạn, trúng 2 mảnh lựu đạn, trên người chi chít vết mổ, sẹo chiến tranh
Ông kể lại: "Chốt 811, xã Vĩnh Hội Đông, huyện Phú Châu, An Giang nơi tôi được phân công, nằm ở ngã ba sông, chỉ cách biên giới Campuchia chừng 200m. Địch thì đặt đại liên sẵn, súng luôn chĩa sang chốt ta, chỉ đợi một sơ hở là nhả đạn như mưa. Đi lại phải khom người, không dám đứng thẳng. Ngủ thì mặc nguyên quần áo, tay ôm súng. Sợ lắm chứ, nhưng đâu có đường lui."
Trận đánh Zặc Lài và người lính tưởng đã không trở về
Ngày 16/12/1977, rạng sáng. Trận địa Zặc Lài ấp Phước Hưng, xã Long Bình nơi ông Đạt và đồng đội vừa nhận bàn giao, bất ngờ bị tập kích dữ dội. Cả tiểu đội chìm trong hỏa lực của địch. Tiếng súng colt, B40, lựu đạn, đại liên... gào rít trong màn đêm đẫm khói.
Ông Đạt, khi đang bò ra chiến hào, bất ngờ phát hiện hai bóng đen bò từ phía sông áp sát. Biết là địch đã luồn vòng đánh sau lưng, ông lập tức xông lên, tay không vật lộn với tên lính Pol Pot có súng và lựu đạn. Trong lúc sinh tử ấy, ông giật quả đạn B40 đập thẳng vào đầu địch, hô to: "Miên đánh đằng sau, anh em ơi!". Nhưng liền sau đó, ông lĩnh trọn bốn phát đạn vào tay, đùi, bụng và mạng sườn. Hai mảnh lựu đạn nữa găm vào người ông. Ông vẫn cố lăn xuống sông để thoát thân, máu chảy xối xả hòa vào nước, lòng thầm nghĩ "chắc mình sẽ chết mất xác…"
2 người đồng đội gặp lại nhau sau 46 năm
Nhưng định mệnh chưa gọi tên. Ông vướng vào dây thừng kéo thuyền, gắng gượng đạp nước ghé vào mạn xuồng, gọi yếu ớt: "Cứu tao với!". Đồng đội là anh Mến phát hiện, lao ra kéo ông lên thuyền, giữa tiếng đạn vẫn nổ vang trời sau lưng.
Khi sang được bên sông, ông Đạt gần như đã mất ý thức, ruột nát, xương gãy, tay chân rời rạc. Nhưng trong giây phút tỉnh táo cuối cùng, ông dặn: "Hưởng ơi, nếu có gì mày nhớ mang ba lô về cho bố mẹ tao, nói tao chết ngày ấy…". Nói xong, ông ngất lịm.
Người cõng ông suốt cả cánh đồng sình lầy ra trạm quân y là ông Tăng Văn Thanh. Ông nhớ lại: "Tôi vừa cõng vừa khom lưng tránh đạn, máu Đạt chảy ướt cả lưng tôi. Lúc ấy, tôi chỉ mong đưa bạn về kịp trạm xá, còn sống hay chết, phó mặc trời...".
Sau trận chiến, ông Đạt được chuyển đi cấp cứu khẩn cấp, trải qua nhiều bệnh viện từ tiền phương đến tuyến sau. Suốt hai năm trời nằm viện, chiến đấu giữa lằn ranh sống - chết, gia đình không hề biết ông còn sống.
Ông Thanh (người cầm hoa) cùng các đồng đội gặp mặt sau 46 năm
Trong lúc mọi người đinh ninh "anh Đạt đã ngã xuống ở Zặc Lài", thì ở chiến tuyến lặng lẽ phía sau, một người lính đang vật lộn với 19 ca đại phẫu. Có lúc tưởng không qua khỏi, có lúc tỉnh dậy giữa đêm chỉ để hỏi: "Tôi còn sống thật sao?".
19 ca đại phẫu, 11 đoạn ruột bị cắt, thận vỡ, bàng quang nát, gãy tay, gãy đùi, vỡ xương chậu… vẫn không giết được người lính ấy. Trong thân thể, vẫn còn 1 mảnh lựu đạn găm lại trong cột sống không thể lấy ra, một viên đạn nằm ở mông như lời nhắc nhở của chiến tranh, một ký ức về một thời lửa đạn.
Người lính trở về và hành trình "hậu chiến" không kém phần gian khó
Năm 1980, ông Đạt trở về nhà dưỡng thương, nhà nước chứng nhận ông là thương binh hạng 1/4 - thương tật 81%. Cuộc sống sau chiến tranh chẳng hề yên bình. Cái đắng cay ngoài cơm áo, đói nghèo còn là bệnh tật và những cơn đau nhức của một thân thể tật nguyền chẳng nguyên vẹn.
Dù mang trên mình thương tật nặng nề, ông không bao giờ cho phép bản thân trở thành gánh nặng của xã hội, càng không chấp nhận gục ngã trước số phận. Nung nấu trong ông là một ý chí thép và khát vọng vươn lên mãnh liệt. Ông bôn ba khắp các nẻo đường từ Lạng Sơn, Cao Bằng đến Sơn La, làm đủ nghề để mưu sinh - từ buôn bán lặt vặt đến lao động chân tay, chưa một ngày cho phép mình sống an nhàn trên danh nghĩa "thương binh".
Gia đình ông Đạt xúc động chụp ảnh lưu niệm cùng đồng đội chiến đấu của bố
Cuối cùng, ông bén duyên với nghề kim hoàn. Từ những ngày đầu lặng lẽ thu mua vàng vụn, phân kim vàng nhỏ lẻ, ông miệt mài học hỏi, kiên trì từng bước trong nghề đầy tính tỉ mỉ và chính xác ấy bất chấp những giới hạn của thân thể đã qua 19 lần đại phẫu.
Cũng trong hành trình ấy, ông gặp và nên duyên với một cô giáo, người sau này là mẹ của các con ông, cùng ông gây dựng nên Tiệm vàng Tiến Đạt. Hơn 30 năm hoạt động, Tiệm vàng không chỉ là địa chỉ uy tín với người dân trong vùng, là nơi người dân, khách hàng gửi gắm niềm tin, mà còn là nơi tạo việc làm cho lao động địa phương, là biểu tượng của nghị lực sống vươn lên.
Nay đã ngoài 67 tuổi, ông Đạt vẫn giữ được dáng ngồi ngay ngắn của người lính, ánh mắt sâu thẳm, giọng trầm đều như vọng lại từ biên cương máu lửa năm nào. Hoạt động kinh doanh của ông không chỉ góp phần vào sự phát triển kinh tế của địa phương, mà còn là minh chứng sống động cho tinh thần "thương binh tàn nhưng không phế", cho khát vọng sống, lao động và cống hiến không ngừng nghỉ. Ông sống, làm việc như một lời nhắc nhở truyền cảm hứng mạnh mẽ đến thế hệ trẻ hôm nay về trách nhiệm, ý chí và khát vọng phụng sự Tổ quốc trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.