Nữ tự vệ Thủ đô góp phần làm nên bản hùng ca bất diệt Điện Biên Phủ trên không (19:24 26/12/2022)


HNP - Đúng vào một ngày Đông giá rét tháng 12, cô tự vệ Nhà máy cơ khí Mai Động (Hà Nội) Phạm Thị Viễn hôm nào cùng những đồng đội đã từng cùng nhau chiến đấu bên khẩu súng cao xạ đến thăm Bảo tàng Chiến thắng B-52. Ở tuổi 73, đôi mắt đã mờ, đôi tay đã run, bà Viễn bồi hồi nhìn lại những ngày đêm trực chiến trên mâm pháo để tiêu diệt máy bay địch, góp phần làm nên bản hùng ca bất diệt “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” năm 1972.

Bà Phạm Thị Viễn ở tuổi 73


Trong trận chiến chống lại cuộc tập kích đường không của quân đội Mỹ những ngày cuối năm 1972, bên cạnh lực lượng chính quy, lực lượng dân quân tự vệ đã góp phần tạo nên lưới lửa dày đặc, cùng toàn thể quân dân tạo nên trận Điện Biên Phủ trên bầu trời Hà Nội. Dù vũ khí còn thô sơ, nhưng đó mãi là bài học quan trọng cho hôm nay và mai sau. Đó là chiến thắng của thế trận chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc.

Tại Bảo tàng Chiến thắng B-52, bà Phạm Thị Viễn dừng hồi lâu trước xác những chiếc máy bay địch bị bắn cháy, những mảnh bom hay chiếc mũ sắt của bộ đội, tự vệ ta đã dùng hôm nào. Đặc biệt, ở đó có xác chiếc máy bay F111A mà năm xưa chính bà cùng đồng đội đã bắn cháy. Nửa thế kỷ đã trôi qua, nhưng chứng kiến những dấu tích chiến tranh, ký ức trong bà Viễn cùng anh em cựu dân quân tự vệ hôm nào lại sống dậy…

Kể về thời điểm năm 1972, bà Phạm Thị Viễn vẫn chưa thể nguôi ngoai khi nhớ lại nỗi đau ập xuống gia đình mình. Trong một lần máy bay địch đánh phá, mẹ bà đã nhường chỗ cho một đứa trẻ trong hầm trú ẩn và bị trúng bom. Mẹ mất, gia đình đông người, em út khi đó mới 4 tuổi. Nén nỗi đau, bà Viễn xung phong nộp đơn xin vào Đội tự vệ Nhà máy Cơ khí Mai Động. Lúc ấy, do chưa đủ tuổi bà còn phải khai tăng thêm một tuổi để được chấp nhận. Vừa sản xuất, đội tự vệ vừa tham gia trực chiến. Đến tháng 12/1972, cuộc tập kích Hà Nội và miền Bắc của Mỹ bắt đầu, với những chiếc pháo đài bay B-52 và nhiều loại máy bay hiện đại khác. Những ngày đầu, đơn vị bà Viễn được giao nhiệm vụ hỗ trợ tiếp đạn cho trận địa pháo 100 ly do khẩu súng máy cao xạ 14,5 ly của đơn vị tự vệ không đủ tầm với đến B-52. Đến chiều 22/12, đơn vị bà được giao nhiệm vụ kéo hai khẩu súng cao xạ lên trận địa mới ở Vân Đồn (gần cổng Bệnh viện Hữu nghị Việt Xô). Cùng tham gia giữ trời Hà Nội ở đây là tự vệ Nhà máy Cơ khí Lương Yên và Nhà máy Gỗ Hà Nội.

 

Chân dung nữ tự vệ Phạm Thị Viễn trong chiến dịch “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” năm 1972 do phóng viên chiến trường Văn Bảo chụp


Bà Viễn bồi hồi nhớ lại: “Buổi tối hôm đấy, địch đánh phá dữ dội. Liên đội chúng tôi giữ vững trận địa để “đón” những chiếc máy bay tầm thấp. Nhận được thông tin máy bay địch bay từ hướng Tam Đảo (Vĩnh Phúc) bay đến Hà Nội, súng cao xạ của chúng tôi và các anh em tự vệ Nhà máy Cơ khí Lương Yên và Nhà máy Gỗ Hà Nội chĩa nòng đón lõng theo hướng định sẵn. Đây là hướng mà quân và dân ta đã theo dõi, nghiên cứu kỹ quy luật, dự đoán hướng máy bay địch sẽ di chuyển trước đó”. Khi máy bay địch bay “tới tầm”, nhận lệnh của chỉ huy, toàn liên đội đồng loạt cho “khạc lửa” loạt đạn 14,5 ly. Kết thúc loạt bắn, liên đội chỉ nhìn thấy chiếc máy bay “bay vèo” qua như một đốm sáng, cũng không chắc rằng có bắn trúng hay không. Đến sáng hôm sau, Liên đội mới biết mình đã bắn rơi máy bay F111A. Chiếc máy bay sau khi trúng đạn đã bay tiếp và rơi ở Hòa Bình, quân dân đã bắt sống 2 phi công lái máy bay đó.

 

Vài ngày sau, bà Viễn nhận được tin dữ tiếp theo. Bố bà đã mất trong một trận B-52. Nhiếp ảnh gia Văn Bảo đã chụp lại hình ảnh cô Viễn ngày ấy, với vành khăn trắng trên đầu. Bao năm trôi qua, đó đã trở thành một hình ảnh đại diện cho Hà Nội kiên cường mà anh dũng. Nói về bức ảnh đen trắng do phóng viên chiến trường Văn Bảo gửi tặng vào năm 2002, nhân kỷ niệm 30 năm chiến thắng “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không”, bà Phạm Thị Viễn chia sẻ, sau khi bố mất, bà đã chít khăn tang rồi nhanh chóng trở lại trận địa, trực chiến trên mâm pháo, ứng trực chiến đấu mãi đến năm 1989 mới trở lại nhà máy làm việc.

Và rồi câu chuyện của cô gái tự vệ Nhà máy Cơ khí Mai Động chít khăn tang, dồn sự căm thù giặc lên đầu nòng pháo đã khiến nhà thơ Tố Hữu trong một lần cùng Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến thăm, chúc mừng đơn vị của bà viết lên bốn câu thơ nói về cô nữ tự vệ kiên cường này trong bài “Việt Nam máu và hoa”: “Trắng khăn tang, em chẳng khóc đâu/ Hỡi em gái mất cha mất mẹ/ Nước mắt rơi làm nhòa mặt quân thù/ Em phải bắn trúng đầu giặc Mỹ…”. Bức ảnh cùng những câu thơ ấy đã luôn khắc sâu trong tâm trí bà Viễn suốt hàng chục năm qua, để nhớ về một dòng ký ức đau thương nhưng rất đỗi hào hùng.

Truyền thống giữ nước qua bao đời của người Việt là chiến tranh nhân dân, là thế trận lòng dân, với sự tham gia của nhiều lực lượng. Đối mặt với kẻ thù mạnh, đem đến những cỗ máy chiến tranh hiện đại hàng đầu, với những vũ khí còn thô sơ, nhưng sự phối hợp tác chiến đã giúp chúng ta làm nên chiến thắng. Bài học chiến tranh nhân dân vẫn luôn mang tính thời đại, dù chiến tranh đã lùi vào quá khứ.


Quỳnh Anh


Các bài mới đăng

Các bài đã đăng :

Bài viết Xem




Viết bình luận

Họ tên:(*)
Số điện thoại:
Tiêu đề:(*)
Nội dung:(*)
Mã xác nhận:         L?y l?i m� b?o m?t